Thứ Hai, 30 tháng 4, 2012

chuyên tình yêu

Trung tá CSQG Nguyễn Văn Long tuẫn tiết dưới chân tượng đài Thủy Quân Lục Chiến (trước tiền sảnh Hạ Nghị Viện VNCH) sau khi Dương Văn Minh đầu hàng CS.

Cộng Sản chiếm được Miền Nam đã mười năm rồi mà tôi vẫn còn tiếp tục bị chúng kêu lên, kêu xuống hỏi cung. Tuy thế, nhờ những thời gian đợi đi “làm việc” như thế tại các trại giam như ThanhLiệt ở Hà Nội; Kho Ðạn, Hội An, và Hòa Sơn ở Quảng Nam mà tôi có dịp gặp nhiều cán bộ Việt Cộng cấp cao bị bắt về tội “kinh tế” hoặc “tham ô” và cả “bạo loạn” nữa.  Cũng như đồng bào nhiều giới phạm tội “phản động hiện hành”, vượt biên, vượt biển, đưa hối lộ, xâm phạm hoặc phá hoại tài sản xã hội chủ nghĩa v..v… , nên tôi biết nhiều và biết sớm những biến cố xảy ra bên ngoài thế giới “cải tạo” hơn đa số anh chị em khác trong tù.
Tôi đã nghe tin trung tá Nguyễn Văn Long tự tử từ lâu.  Nhưng vì có những trường hợp sự thật khác với tin đồn.  Biết đâu đó không là một người khác mà lại trùng tên với người mà tôi thân thương; hơn nữa, anh Nguyễn Văn Long của tôi là một tín đồ Ky Tô Giáo, lẽ nào lại tự hủy mình.  Do đó, tôi vừa âm thầm đau khổ về hoàn cảnh chung, vừa bán tín bán nghi về phần anh Long.  Ðến khi tôi được nghe thêm hai viên “thủ trưởng”, một thuộc Cục Xuất-Nhập Khẩu 2 tại “thành phố Hồ Chí Minh”, một thuộc Ban Hậu Cần Quân Khu 5, khẳng định là họ có nghe đề cập trong nội bộ cơ quan rằng, ngoài một số tướng lĩnh miền Nam đã tự sát chứ không chịu đầu hàng hay trốn chạy ra nước ngoài, có một trung-tá Cảnh-Sát tên Nguyễn Văn Long, từ Ðà Nẵng di tản vào, đã tự tử chết phía trước trụ sở Quốc Hội Việt-Nam Cộng-Hòa, tôi mới tin chắc đó chính là anh Nguyễn Văn Long.
Anh Long vĩnh biệt cõi đời giữa cảnh lửa bỏng dầu sôi, bạn bè nói riêng và đồng bào nói chung thì còn bận lo tự cứu lấy mình, trong khi kẻ thù thì càng thù hận anh thêm, lấy đâu có những vòng hoa và những nén nhang cùng những dòng lệ thương tiếc tiễn anh về nơi an nghỉ cuối cùng.
Năm 1982, tại trại bí mật Thanh Liệt, thuộc Huyện Thanh Trì, Hà-Nội, là nơi giam cứu các phần tử quan trọng nhất, mà đa số là cán bộ Ðảng, nhà nước và bộ đội ở cấp trung uơng, do bộ Nội-Vụ trực tiếp quản lý, tôi mới được một “bạn tù” cho biết thêm một chi tiết quý báu về cái chết hùng vinh của trung tá Nguyễn Văn Long.  Ðó là Phạm Trung Linh, một trung tá bộ đội Bắc Việt, nguyên trưởng Tiểu Ban Thanh Tra & Xét Khiếu Tố thuộc Trung Ương Cục Miền Nam (tổng thư ký của một tổ chức đảo chính quân sự dự định hành động vào đêm 24 rạng ngày Nô-En năm 1979 nhưng bất thành nên bị bắt cùng với một số tướng tá và cán bộ cao cấp khác) xác nhận rằng gã đã có trông thấy bức ảnh chụp cảnh trung tá Nguyễn Văn Long mặc cảnh phục chỉnh tề nằm chết trước một tượng đài Chiến Sĩ Quốc Gia phía trước trụ sở Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa, in trên bìa trước của một tạp chí Hoa Kỳ, trong kho sách báo ngoại quốc mà Việt Cộng ở một số cấp cao đã sưu tầm để nghiên cứu những gì có liên quan đến Việt Nam.
Thế là từ đó không những tôi nguôi tủi sầu mà trái lại còn cảm thấy lòng mình vui thỏa cho anh Long; báo Mỹ mà đã đăng lên thì khắp thế giới đều biết.  Anh, cùng với những vị anh hùng tuẫn quốc khác trong biến cố lịch sử 30-4-1975, đã nói lên được hùng hồn và cụ thể tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam yêu chuộng Tự Do trước quyền lực của cộng sản bạo tàn.
Thuở ấy, vào khoảng 1950, miền Trung có hai hệ thống an ninh: một bên là Pháp với cơ quan Su^reté fédérale (Liêm Phóng Liên Bang) và Police franc,aise (Cảnh Sát Pháp), một bên là Việt Nam với cơ quan Công An & Cảnh Sát Quốc Gia.  Anh Nguyễn Văn Long tùng sự bên Su^reté Fédérale (chính trị) của Pháp, trong số vài người phụ trách nội ô Thần Kinh; còn tôi thì bên Cảnh Sát (hình sự) của Việt Nam. Tôi kiêm cả việc sáng tác, ra báo, và dựng kịch cho sở làm, và cho riêng mình.
Chúng tôi thường uống cà phê ở quán Lạc Sơn, nhà hàng lộ thiên trên lề đại lộ Trần Hưng Ðạo, quay lưng vào chợ Ðông Ba.  Dạo ấy, tôi viết cuốn truyện “Trai Thời Loạn” chống Pháp xâm lược và Bảo Ðại bù nhìn, nên bị bắt giam; sau nhờ phái đoàn của các nhân sĩ Cao Văn Tường, Cao Văn Chiểu, cùng với nhà báo Phạm Bá Nguyên và cả Giám Ðốc Thông Tin Lê Tảo can thiệp với Thủ Hiến Phan Văn Giáo, tôi mới được trả tự do.  Ra tù, tự nhiên tôi được thiện cảm của nhiều người hơn.
Sau đó, anh Long đã chuyển qua Công An Việt Nam; và Vân Sơn Phan Mỹ Trúc cũng như Như Trị Bùi Chánh Thời thì vào Sài Gòn; kẻ thành ký giả tên tuổi, người nên luật sư tài danh.  Sau khi gia nhập vào đúng hàng ngũ thích hợp để phụng thờ Chính Nghĩa Quốc Gia, trải qua mấy chục năm trời gắn bó với Lực Lượng Cảnh Sát & Công An Việt Nam Cộng Hòa, anh Nguyễn Văn Long tận tụy phục vụ, và đã nổi tiếng là một trong số những cấp chỉ huy tích cực, cương trực và liêm khiết nhất trong ngành.
Về mặt tư pháp, trung-tá Nguyễn Văn Long đã thực hiện đúng khẩu hiệu “pháp bất vị thân”.  Ngay đối với chính đồng nghiệp, bất cứ nhân viên Cảnh Sát nào mà phạm tội hình sự là anh truy tố ra Tòa thẳng tay; anh nói, để lành mạnh hóa nội bộ, và nêu gương thượng tôn luật pháp cho người dân.  Bởi thế, anh bị nhiều người gọi bằng cái tên “Long Lý”, ý nói anh chỉ biết chiếu lý chứ không vị tình.
Sau hiệp định Paris 1973, tình hình xã hội miền Nam thật là rối ren.  Bên ngoài thì Cộng Sản Bắc Việt công khai ồ ạt đổ thêm quân và chiến cụ, vũ khí vào tấn công ta; bên trong thì các tổ chức xưng danh đối lập và lợi dụng tự do quá khích, tiếp tay với các phần tử nằm vùng, ngày càng gia tăng mức độ và cường- độ gây hỗn loạn trật tự và làm suy thoái tinh thần các lực lượng Quốc Gia.  Về mặt chính trị, CSQG vừa phải đối phó với các bộ phận đảng, mặt trận, nhà nước và nhân dân của CSXL và “Việt-Cộng”, vừa phải chống đỡ các phần tử, phe nhóm chủ bại và nội ứng cho kẻ thù.
Về mặt tệ đoan xã hội, ung nhọt tràn lan khắp nơi.  Riêng về nạn dịch nhũng nhiễu tham lam, công  tác đương đầu đã gặp quá nhiều khó khăn.  Hầu như kẻ nào làm bậy cũng đều nấp dưới danh nghĩa của một chính đảng, tìm sự che chở của một đoàn- thể hay một số cấp lãnh đạo nào đó trong chính quyền.  Ðụng vào họ, dù họ là kẻ phạm pháp, có thể là tự rước lấy tai họa vào mình.  Thế mà anh Long đã dám xúc tiến điều tra, lập hồ sơ truy tố nhiều nhân vật đáng sợ.
Với tôi, anh Long đã chịu nhượng bộ: nếu gặp nhân viên đặc cảnh liên can đến các vụ hình, anh để tùy tôi xét trước, để tránh oan ức, trở ngại cho công  tác chìm.  Ấy là nhờ anh hiểu rõ phương thức tình báo và đặt nhu cầu chống cộng lên hàng ưu tiên. Ðó là quyết định linh động duy nhất trong cương vị chánh sở pháp cảnh của anh Long.
Kỷ niệm đậm nét nhất trong đời tôi về anh Long là vụ rút lui ra khỏi Ðà Nẵng, thành lũy cuối cùng của Quân Khu I Việt Nam Cộng Hòa.
Lúc ấy vào khoảng 10 giờ tối ngày 28-3-1975. Trên máy vô tuyến truyền tin thuộc hệ Cảnh Sát sắc phục nội thành Ðà Nẵng, tôi nghe một đài gọi đài trung ương, nhưng không có ai trả lời.  Lát sau, có một đài khác cất tiếng: “Ðừng gọi vô ích, bọn chúng chạy hết cả rồi!”  Tôi bèn hỏi đài hồi nãy, thì được báo cáo là có nhiều người ăn mặc lộn xộn, vũ khí cầm tay, đang nép hai bên lề đường từ hướng Hòa Cường tiến vào.
Tôi dùng làn sóng của hệ đặc cảnh ra lệnh cho Sở tác vụ vùng và Sở đặc cảnh sở tại đối phó, đồng thời gọi máy điện thoại cho đại tá Nguyễn Xuân Lộc, Tư Lệnh Cảnh Lực Vùng I, lúc ấy đang cùng có mặt với các Chánh sở vùng và một số chỉ huy cảnh lực tỉnh tập trung tại đây.
Lát sau, anh Long đến ngồi tại phòng truyền tin của ngành đặc cảnh vùng, nơi đây có máy âm thoại của cả 2 hệ nổi chìm địa phương lẫn hệ toàn quốc, và máy điện thoại bưu điện, điện thoại quân sự, cách dăm mười phút lại gọi hỏi tôi tình hình thế nào. Khoảng sau 11 giờ đêm, từ đài đặc cảnh Vùng I trung tá Long gọi tôi.  Lần nầy tôi nghe giọng anh run lên, lời lẽ trịnh trọng khác thường:  “Tôi xin mời ông Phụ Tá đến ngay để tổ chức phòng tuyến và chỉ huy đội ngũ tử thủ cùng với anh em chúng tôi!” (Tử-thủ là lời cam kết của trung tướng Ngô Quang Trưởng đọc trên đài phá thanh Ðà Nẵng suốt chiều hôm nay).
Anh Long kể lại với tôi là anh được lệnh, cùng với mọi người có mặt tại trụ sở Vùng, Chánh sở các sở, chỉ huy của một số tỉnh, có cả mấy viên đại tá quân đội, theo đại tá Lộc xuống bến Giang Cảnh, lên tàu Giang Cảnh, rời bến hướng ra biển Ðông. Anh hỏi đi đâu thì đại tá Lộc trả lời:  “Chúng ta di tản vào Nam!”  Anh thấy máu uất xông lên đỉnh đầu, la lên:  “Giặc chưa tấn công, thuộc viên vẫn còn ở lại, mà cấp chỉ huy đã lén lút bỏ đi như thế này là hèn!”  Lộc cố giải thích:  “Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn đã rút đi rồi.  Trong tình huống này chúng ta đành phải phụ lòng anh em mà thôi!”  Long bèn rút súng, nhìn thẳng vào mặt từng người với vẻ khinh thường, và bảo tàu ghé vào bờ cho anh trở lui.  Và anh đã về trụ sở, để cùng chiến đấu, sống chết có nhau với anh em.
Tôi tin tưởng và kính phục anh Long vô cùng; nhưng tôi thấy rõ là nếu đến sở thì sẽ dính kẹt ở đó, khó lòng điều động hoạt động bên ngoài, nên nói là tôi bận họp.  Anh xin mượn tôi một máy vô tuyến cầm tay, và đòi đến họp với tôi. Anh Long đã đến nhà tôi, hỏi tôi ở đâu, tôi đáp là đến Ðặc Khu, nhưng tôi đến Bộ Tư Lệnh Quân-Ðoàn; nơi đây vắng hoe.  Anh hỏi, tôi đáp là vào phi trường, nhưng tôi đến Sở An Ninh Quân Ðội; nơi đây cũng chẳng còn ai.  Anh không gặp tôi, lại hỏi; và tôi lại dối, tránh anh.  Cứ thế mà tôi đến khắp các nơi vốn là chỗ dựa cho niềm tin của dân nhân.
Ðến sau nửa đêm thì cả thành phố đổ dồn qua cầu Trịnh Minh Thế để qua bến cảng, bãi biển quận III, để mong chạy vào SàiGòn. Tôi cùng Tác Vụ, thám sát đặc biệt, quan sát xong tình hình bên đó, len lách trở về thì thoáng dưới ánh đèn pha thấy rõ hình dáng của anh, mặc cảnh chiến phục, gác khẩu M-16 ngang đùi, mặt mày đỏ gay, tức uất nhưng đầy cương nghị, lái xe vụt qua.  Ðó là hình ảnh cuối cùng của trung-tá Nguyễn Văn Long, mãi mãi hằn sâu trong ký ức tôi.
Gần sáng ngày 29-3-1975, Việt Cộng pháo kích hải cảng, phi trường.  Mờ sáng, đặc công từ hướng núi Non Nước bắt đầu tấn công vào.  Ðến trưa, tôi gọi máy về cho đại-úy Nguyễn Văn Tuyên, Chánh sở nghiên kế, lúc đó còn ngồi tại chỗ, ra lệnh giải tán Trung Tâm Hành Quân của Ðặc Cảnh Vùng I, là bộ phận sau rốt của chính quyền VNCH còn hoạt động đến phút cuối cùng, và cho phép thuộc viên tự tìm phương tiện thoát thân.  Xế chiều, tôi mới kiếm được chiếc thúng, rời bờ, liều lĩnh trước các làn đạn pháo kích của địch và trực xạ của chính bạn mình.  Và tôi không còn gặp lại anh Long.
Cái chết của trung tá Cảnh Sát Nguyễn Văn Long làm tôi suy nghĩ rất nhiều.  Anh đã phục vụ dưới nhiều chế độ khác nhau, đảm trách công tác ở nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng vẫn giữ mình trung chính khiết liêm.  Anh tuy lớn tuổi nhưng vẫn trẻ trung trong lối sống và trong công việc, không bị lứa trẻ sau này vượt qua.
Trong lúc nước nhà đang bị cộng sản xâm lăng, anh ý thức được chúng là kẻ thù số một của toàn dân, sự nghiệp chống Cộng phải là ưu tiên số một của mọi người yêu quý Tự Do, nên anh phải góp phần vào.  Thành quả chống cộng của CSQG nói chung, là đã có lúc hạ được nhiều tên cộng tặc hơn cả con số chúng bị thiệt hại trên chiến trường, do đó, anh tự nhận lãnh vào bản thân mình một phần trách nhiệm đối với đối phương về những tổn thất mà chúng hứng chịu nặng nề.  Nhưng trên tất cả là sự sụp đổ thảm khốc của Việt Nam Cộng Hòa, mà đối với Tổ Quốc, Dân Tộc, Lịch Sử, và Thế Giới, thì cái trách nhiệm vô cùng lớn lao ấy nhất định là của mọi người, trong đó có anh.  Nên anh tự xử, cũng như các anh hùng Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai, Hồ Ngọc Cẩn  v..v…, để tạ tội với tiền nhân và quốc dân, và để nói lên tinh thần bất khuất của người chiến sĩ Tự Do, không chịu hạ mình đầu hàng kẻ thù.
Cái chết của anh Long làm tôi hãnh-diện vô cùng.  Tuy người chết không mong được đời nhắc đến, nhưng bổn-phận của người sống là phải phát huy những tấm gương trí dũng ngời sáng ấy, để nhờ đó mà mình tin tưởng và phấn khởi tiếp tục lo toan sự nghiệp chung.
Bây giờ, đối với toàn dân, Nguyễn Văn Long không còn là một trung tá, là một Chánh sở tư pháp, là

học và làm việc tại Hcm

Trung tá CSQG Nguyễn Văn Long tuẫn tiết dưới chân tượng đài Thủy Quân Lục Chiến (trước tiền sảnh Hạ Nghị Viện VNCH) sau khi Dương Văn Minh đầu hàng CS.

Cộng Sản chiếm được Miền Nam đã mười năm rồi mà tôi vẫn còn tiếp tục bị chúng kêu lên, kêu xuống hỏi cung. Tuy thế, nhờ những thời gian đợi đi “làm việc” như thế tại các trại giam như ThanhLiệt ở Hà Nội; Kho Ðạn, Hội An, và Hòa Sơn ở Quảng Nam mà tôi có dịp gặp nhiều cán bộ Việt Cộng cấp cao bị bắt về tội “kinh tế” hoặc “tham ô” và cả “bạo loạn” nữa.  Cũng như đồng bào nhiều giới phạm tội “phản động hiện hành”, vượt biên, vượt biển, đưa hối lộ, xâm phạm hoặc phá hoại tài sản xã hội chủ nghĩa v..v… , nên tôi biết nhiều và biết sớm những biến cố xảy ra bên ngoài thế giới “cải tạo” hơn đa số anh chị em khác trong tù.
Tôi đã nghe tin trung tá Nguyễn Văn Long tự tử từ lâu.  Nhưng vì có những trường hợp sự thật khác với tin đồn.  Biết đâu đó không là một người khác mà lại trùng tên với người mà tôi thân thương; hơn nữa, anh Nguyễn Văn Long của tôi là một tín đồ Ky Tô Giáo, lẽ nào lại tự hủy mình.  Do đó, tôi vừa âm thầm đau khổ về hoàn cảnh chung, vừa bán tín bán nghi về phần anh Long.  Ðến khi tôi được nghe thêm hai viên “thủ trưởng”, một thuộc Cục Xuất-Nhập Khẩu 2 tại “thành phố Hồ Chí Minh”, một thuộc Ban Hậu Cần Quân Khu 5, khẳng định là họ có nghe đề cập trong nội bộ cơ quan rằng, ngoài một số tướng lĩnh miền Nam đã tự sát chứ không chịu đầu hàng hay trốn chạy ra nước ngoài, có một trung-tá Cảnh-Sát tên Nguyễn Văn Long, từ Ðà Nẵng di tản vào, đã tự tử chết phía trước trụ sở Quốc Hội Việt-Nam Cộng-Hòa, tôi mới tin chắc đó chính là anh Nguyễn Văn Long.
Anh Long vĩnh biệt cõi đời giữa cảnh lửa bỏng dầu sôi, bạn bè nói riêng và đồng bào nói chung thì còn bận lo tự cứu lấy mình, trong khi kẻ thù thì càng thù hận anh thêm, lấy đâu có những vòng hoa và những nén nhang cùng những dòng lệ thương tiếc tiễn anh về nơi an nghỉ cuối cùng.
Năm 1982, tại trại bí mật Thanh Liệt, thuộc Huyện Thanh Trì, Hà-Nội, là nơi giam cứu các phần tử quan trọng nhất, mà đa số là cán bộ Ðảng, nhà nước và bộ đội ở cấp trung uơng, do bộ Nội-Vụ trực tiếp quản lý, tôi mới được một “bạn tù” cho biết thêm một chi tiết quý báu về cái chết hùng vinh của trung tá Nguyễn Văn Long.  Ðó là Phạm Trung Linh, một trung tá bộ đội Bắc Việt, nguyên trưởng Tiểu Ban Thanh Tra & Xét Khiếu Tố thuộc Trung Ương Cục Miền Nam (tổng thư ký của một tổ chức đảo chính quân sự dự định hành động vào đêm 24 rạng ngày Nô-En năm 1979 nhưng bất thành nên bị bắt cùng với một số tướng tá và cán bộ cao cấp khác) xác nhận rằng gã đã có trông thấy bức ảnh chụp cảnh trung tá Nguyễn Văn Long mặc cảnh phục chỉnh tề nằm chết trước một tượng đài Chiến Sĩ Quốc Gia phía trước trụ sở Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa, in trên bìa trước của một tạp chí Hoa Kỳ, trong kho sách báo ngoại quốc mà Việt Cộng ở một số cấp cao đã sưu tầm để nghiên cứu những gì có liên quan đến Việt Nam.
Thế là từ đó không những tôi nguôi tủi sầu mà trái lại còn cảm thấy lòng mình vui thỏa cho anh Long; báo Mỹ mà đã đăng lên thì khắp thế giới đều biết.  Anh, cùng với những vị anh hùng tuẫn quốc khác trong biến cố lịch sử 30-4-1975, đã nói lên được hùng hồn và cụ thể tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam yêu chuộng Tự Do trước quyền lực của cộng sản bạo tàn.
Thuở ấy, vào khoảng 1950, miền Trung có hai hệ thống an ninh: một bên là Pháp với cơ quan Su^reté fédérale (Liêm Phóng Liên Bang) và Police franc,aise (Cảnh Sát Pháp), một bên là Việt Nam với cơ quan Công An & Cảnh Sát Quốc Gia.  Anh Nguyễn Văn Long tùng sự bên Su^reté Fédérale (chính trị) của Pháp, trong số vài người phụ trách nội ô Thần Kinh; còn tôi thì bên Cảnh Sát (hình sự) của Việt Nam. Tôi kiêm cả việc sáng tác, ra báo, và dựng kịch cho sở làm, và cho riêng mình.
Chúng tôi thường uống cà phê ở quán Lạc Sơn, nhà hàng lộ thiên trên lề đại lộ Trần Hưng Ðạo, quay lưng vào chợ Ðông Ba.  Dạo ấy, tôi viết cuốn truyện “Trai Thời Loạn” chống Pháp xâm lược và Bảo Ðại bù nhìn, nên bị bắt giam; sau nhờ phái đoàn của các nhân sĩ Cao Văn Tường, Cao Văn Chiểu, cùng với nhà báo Phạm Bá Nguyên và cả Giám Ðốc Thông Tin Lê Tảo can thiệp với Thủ Hiến Phan Văn Giáo, tôi mới được trả tự do.  Ra tù, tự nhiên tôi được thiện cảm của nhiều người hơn.
Sau đó, anh Long đã chuyển qua Công An Việt Nam; và Vân Sơn Phan Mỹ Trúc cũng như Như Trị Bùi Chánh Thời thì vào Sài Gòn; kẻ thành ký giả tên tuổi, người nên luật sư tài danh.  Sau khi gia nhập vào đúng hàng ngũ thích hợp để phụng thờ Chính Nghĩa Quốc Gia, trải qua mấy chục năm trời gắn bó với Lực Lượng Cảnh Sát & Công An Việt Nam Cộng Hòa, anh Nguyễn Văn Long tận tụy phục vụ, và đã nổi tiếng là một trong số những cấp chỉ huy tích cực, cương trực và liêm khiết nhất trong ngành.
Về mặt tư pháp, trung-tá Nguyễn Văn Long đã thực hiện đúng khẩu hiệu “pháp bất vị thân”.  Ngay đối với chính đồng nghiệp, bất cứ nhân viên Cảnh Sát nào mà phạm tội hình sự là anh truy tố ra Tòa thẳng tay; anh nói, để lành mạnh hóa nội bộ, và nêu gương thượng tôn luật pháp cho người dân.  Bởi thế, anh bị nhiều người gọi bằng cái tên “Long Lý”, ý nói anh chỉ biết chiếu lý chứ không vị tình.
Sau hiệp định Paris 1973, tình hình xã hội miền Nam thật là rối ren.  Bên ngoài thì Cộng Sản Bắc Việt công khai ồ ạt đổ thêm quân và chiến cụ, vũ khí vào tấn công ta; bên trong thì các tổ chức xưng danh đối lập và lợi dụng tự do quá khích, tiếp tay với các phần tử nằm vùng, ngày càng gia tăng mức độ và cường- độ gây hỗn loạn trật tự và làm suy thoái tinh thần các lực lượng Quốc Gia.  Về mặt chính trị, CSQG vừa phải đối phó với các bộ phận đảng, mặt trận, nhà nước và nhân dân của CSXL và “Việt-Cộng”, vừa phải chống đỡ các phần tử, phe nhóm chủ bại và nội ứng cho kẻ thù.
Về mặt tệ đoan xã hội, ung nhọt tràn lan khắp nơi.  Riêng về nạn dịch nhũng nhiễu tham lam, công  tác đương đầu đã gặp quá nhiều khó khăn.  Hầu như kẻ nào làm bậy cũng đều nấp dưới danh nghĩa của một chính đảng, tìm sự che chở của một đoàn- thể hay một số cấp lãnh đạo nào đó trong chính quyền.  Ðụng vào họ, dù họ là kẻ phạm pháp, có thể là tự rước lấy tai họa vào mình.  Thế mà anh Long đã dám xúc tiến điều tra, lập hồ sơ truy tố nhiều nhân vật đáng sợ.
Với tôi, anh Long đã chịu nhượng bộ: nếu gặp nhân viên đặc cảnh liên can đến các vụ hình, anh để tùy tôi xét trước, để tránh oan ức, trở ngại cho công  tác chìm.  Ấy là nhờ anh hiểu rõ phương thức tình báo và đặt nhu cầu chống cộng lên hàng ưu tiên. Ðó là quyết định linh động duy nhất trong cương vị chánh sở pháp cảnh của anh Long.
Kỷ niệm đậm nét nhất trong đời tôi về anh Long là vụ rút lui ra khỏi Ðà Nẵng, thành lũy cuối cùng của Quân Khu I Việt Nam Cộng Hòa.
Lúc ấy vào khoảng 10 giờ tối ngày 28-3-1975. Trên máy vô tuyến truyền tin thuộc hệ Cảnh Sát sắc phục nội thành Ðà Nẵng, tôi nghe một đài gọi đài trung ương, nhưng không có ai trả lời.  Lát sau, có một đài khác cất tiếng: “Ðừng gọi vô ích, bọn chúng chạy hết cả rồi!”  Tôi bèn hỏi đài hồi nãy, thì được báo cáo là có nhiều người ăn mặc lộn xộn, vũ khí cầm tay, đang nép hai bên lề đường từ hướng Hòa Cường tiến vào.
Tôi dùng làn sóng của hệ đặc cảnh ra lệnh cho Sở tác vụ vùng và Sở đặc cảnh sở tại đối phó, đồng thời gọi máy điện thoại cho đại tá Nguyễn Xuân Lộc, Tư Lệnh Cảnh Lực Vùng I, lúc ấy đang cùng có mặt với các Chánh sở vùng và một số chỉ huy cảnh lực tỉnh tập trung tại đây.
Lát sau, anh Long đến ngồi tại phòng truyền tin của ngành đặc cảnh vùng, nơi đây có máy âm thoại của cả 2 hệ nổi chìm địa phương lẫn hệ toàn quốc, và máy điện thoại bưu điện, điện thoại quân sự, cách dăm mười phút lại gọi hỏi tôi tình hình thế nào. Khoảng sau 11 giờ đêm, từ đài đặc cảnh Vùng I trung tá Long gọi tôi.  Lần nầy tôi nghe giọng anh run lên, lời lẽ trịnh trọng khác thường:  “Tôi xin mời ông Phụ Tá đến ngay để tổ chức phòng tuyến và chỉ huy đội ngũ tử thủ cùng với anh em chúng tôi!” (Tử-thủ là lời cam kết của trung tướng Ngô Quang Trưởng đọc trên đài phá thanh Ðà Nẵng suốt chiều hôm nay).
Anh Long kể lại với tôi là anh được lệnh, cùng với mọi người có mặt tại trụ sở Vùng, Chánh sở các sở, chỉ huy của một số tỉnh, có cả mấy viên đại tá quân đội, theo đại tá Lộc xuống bến Giang Cảnh, lên tàu Giang Cảnh, rời bến hướng ra biển Ðông. Anh hỏi đi đâu thì đại tá Lộc trả lời:  “Chúng ta di tản vào Nam!”  Anh thấy máu uất xông lên đỉnh đầu, la lên:  “Giặc chưa tấn công, thuộc viên vẫn còn ở lại, mà cấp chỉ huy đã lén lút bỏ đi như thế này là hèn!”  Lộc cố giải thích:  “Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn đã rút đi rồi.  Trong tình huống này chúng ta đành phải phụ lòng anh em mà thôi!”  Long bèn rút súng, nhìn thẳng vào mặt từng người với vẻ khinh thường, và bảo tàu ghé vào bờ cho anh trở lui.  Và anh đã về trụ sở, để cùng chiến đấu, sống chết có nhau với anh em.
Tôi tin tưởng và kính phục anh Long vô cùng; nhưng tôi thấy rõ là nếu đến sở thì sẽ dính kẹt ở đó, khó lòng điều động hoạt động bên ngoài, nên nói là tôi bận họp.  Anh xin mượn tôi một máy vô tuyến cầm tay, và đòi đến họp với tôi. Anh Long đã đến nhà tôi, hỏi tôi ở đâu, tôi đáp là đến Ðặc Khu, nhưng tôi đến Bộ Tư Lệnh Quân-Ðoàn; nơi đây vắng hoe.  Anh hỏi, tôi đáp là vào phi trường, nhưng tôi đến Sở An Ninh Quân Ðội; nơi đây cũng chẳng còn ai.  Anh không gặp tôi, lại hỏi; và tôi lại dối, tránh anh.  Cứ thế mà tôi đến khắp các nơi vốn là chỗ dựa cho niềm tin của dân nhân.
Ðến sau nửa đêm thì cả thành phố đổ dồn qua cầu Trịnh Minh Thế để qua bến cảng, bãi biển quận III, để mong chạy vào SàiGòn. Tôi cùng Tác Vụ, thám sát đặc biệt, quan sát xong tình hình bên đó, len lách trở về thì thoáng dưới ánh đèn pha thấy rõ hình dáng của anh, mặc cảnh chiến phục, gác khẩu M-16 ngang đùi, mặt mày đỏ gay, tức uất nhưng đầy cương nghị, lái xe vụt qua.  Ðó là hình ảnh cuối cùng của trung-tá Nguyễn Văn Long, mãi mãi hằn sâu trong ký ức tôi.
Gần sáng ngày 29-3-1975, Việt Cộng pháo kích hải cảng, phi trường.  Mờ sáng, đặc công từ hướng núi Non Nước bắt đầu tấn công vào.  Ðến trưa, tôi gọi máy về cho đại-úy Nguyễn Văn Tuyên, Chánh sở nghiên kế, lúc đó còn ngồi tại chỗ, ra lệnh giải tán Trung Tâm Hành Quân của Ðặc Cảnh Vùng I, là bộ phận sau rốt của chính quyền VNCH còn hoạt động đến phút cuối cùng, và cho phép thuộc viên tự tìm phương tiện thoát thân.  Xế chiều, tôi mới kiếm được chiếc thúng, rời bờ, liều lĩnh trước các làn đạn pháo kích của địch và trực xạ của chính bạn mình.  Và tôi không còn gặp lại anh Long.
Cái chết của trung tá Cảnh Sát Nguyễn Văn Long làm tôi suy nghĩ rất nhiều.  Anh đã phục vụ dưới nhiều chế độ khác nhau, đảm trách công tác ở nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng vẫn giữ mình trung chính khiết liêm.  Anh tuy lớn tuổi nhưng vẫn trẻ trung trong lối sống và trong công việc, không bị lứa trẻ sau này vượt qua.
Trong lúc nước nhà đang bị cộng sản xâm lăng, anh ý thức được chúng là kẻ thù số một của toàn dân, sự nghiệp chống Cộng phải là ưu tiên số một của mọi người yêu quý Tự Do, nên anh phải góp phần vào.  Thành quả chống cộng của CSQG nói chung, là đã có lúc hạ được nhiều tên cộng tặc hơn cả con số chúng bị thiệt hại trên chiến trường, do đó, anh tự nhận lãnh vào bản thân mình một phần trách nhiệm đối với đối phương về những tổn thất mà chúng hứng chịu nặng nề.  Nhưng trên tất cả là sự sụp đổ thảm khốc của Việt Nam Cộng Hòa, mà đối với Tổ Quốc, Dân Tộc, Lịch Sử, và Thế Giới, thì cái trách nhiệm vô cùng lớn lao ấy nhất định là của mọi người, trong đó có anh.  Nên anh tự xử, cũng như các anh hùng Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai, Hồ Ngọc Cẩn  v..v…, để tạ tội với tiền nhân và quốc dân, và để nói lên tinh thần bất khuất của người chiến sĩ Tự Do, không chịu hạ mình đầu hàng kẻ thù.
Cái chết của anh Long làm tôi hãnh-diện vô cùng.  Tuy người chết không mong được đời nhắc đến, nhưng bổn-phận của người sống là phải phát huy những tấm gương trí dũng ngời sáng ấy, để nhờ đó mà mình tin tưởng và phấn khởi tiếp tục lo toan sự nghiệp chung.
Bây giờ, đối với toàn dân, Nguyễn Văn Long không còn là một trung tá, là một Chánh sở tư pháp, là